Thứ Tư, 7 tháng 2, 2018

Lấp lánh

Càng ngày tôi càng nghĩ, có lẽ từ ban đầu, Chúa đã không chỉ tạo ra Adam và Eva. Ngài sâu sắc (tức là phức tạp) hơn thế rất nhiều. Và chắc ngài cũng rảnh hơn là ta nghĩ. Ngài lấy xương sườn của Adam tạo ra Eva, rồi lại lấy xương sườn của Eva tạo ra Adam phẩy, rồi lấy xương sườn của Adam phẩy tạo ra Eva phẩy. Cứ thế cho đến lúc ngài mỏi tay. Cây táo trên vườn địa đàng chắc cũng có nhiều trái, tuỳ vào việc người ta ăn trái nào, gần mặt trời hơn hay xa mặt trời hơn mà chất độc cũng có khác nhau. Nhưng ăn trái nào đi nữa thì cũng là cây ấy thôi. Nghĩa là giờ chúng ta yêu ai đi nữa, thì cũng là yêu thôi. Chúa đồng ý hết.

Lấp lánh là một câu chuyện tình yêu dịu dàng và lấp lánh như tên của nó, thứ ánh sáng của những mảnh vỡ thủy tinh lao xao bên nhau, soi vào nhau và cần có nhau trong cuộc đời. Một câu chuyện đặt tình yêu đồng tính và dị tính lên bàn cân rồi không thèm quan tâm đến cây kim đã lệch về phía nào, cho đến hết câu chuyện. Một cái cân vô nghĩa nhất thế giới. Mà chúng ta có vô vàn những cái cân như thế. Chúng ta tưởng mình cần, thật đáng thương.

Tôi cũng tưởng mình cần, nên tôi đã thương họ cho đến gần hết quyển sách. Nhưng họ không cần sự thông cảm của tôi. Họ thấy đủ rồi. Shoko không muốn gì hơn là Mustuki, người chồng đồng tính nam, người chồng với mối tình tha thiết với Kon, cậu bé đẹp trai, mối tình đầu của anh. Anh cũng cần cô, người vợ bên cuộc đời để làm đẹp lòng gia đình, thương và trân trọng cô. Và anh vẫn yêu Kon, Kon vẫn yêu anh. Chúng ta có một mối tình tay ba nực cười và rồi chỉ chúng ta cười thôi. Họ hạnh phúc và bình yên với lựa chọn của mình. Họ cần nhau, bên nhau. Thế thôi.

Đi từ đầu cho đến cuối, cuốn sách vẫn giữ nguyên vẹn sự nhẹ nhàng khoan thai của mình, đan cài những số phận vào nhau, vá víu những cô đơn và những nỗi mặc cảm không nguyên vẹn của mình. Tình yêu rất đơn giản, tình yêu rất trong trẻo nếu ta biết tháo đi gánh nặng của ham muốn và sở hữu, buông tay cho cảm xúc dẫn đi hết đoạn đường đời ngắn ngủi của kiếp người. Tôi nhìn ba người họ bên nhau, thản nhiên, hạnh phúc. Tôi muốn biết Chúa đã nghĩ gì trước những chọn lựa của những sản phẩm mà mình tạo ra. Mà chắc là ngài không nghĩ gì đâu, ngài phẩy tay : ôi dào, làm gì, chọn gì kệ chúng bây, hạnh phúc là được.
Hạnh phúc là được 

Phía sau nghi can X

Đây là một quyển trinh thám đã phá sập định kiến của tôi về trinh thám, cái vẻ vờ vĩnh giấu chỗ này một ít, chỗ kia một ít, cái kiểu im lặng lửng lơ lấp lửng lúc cao trào, cái kiểu làm màu giật gân cho hồi hộp chơi và đến khi đọc xong thì cũng đến lúc cảm giác về mo. Không, đây không phải là kiểu trinh thám như thế. Nó đã thoát ra ngoài cơ thể gồng cứng và những đòn cân não bệnh hoạn chán ốm, nó đi ra ngoài để đến với cuộc sống, để trở thành một quyển tiểu thuyết rất đời, theo một lối viết rất dung dị.

Ngay từ đầu, Higashino Keigo đã ngửa bài tất cả, từ nạn nhân đến hung thủ đến động cơ giết người. Ông không giấu gì. Nhưng cuộc đời là vậy đó, ta tưởng mình thấy hết, nhưng thật ra mỗi người vẫn là một cái giếng sâu, điều ta thấy vẫn là bóng của chính mình. Quyển tiểu thuyết này dắt ta đi trong cái vòng luẩn quẩn của thường nhật, để rồi bế tắc trong đó, như ngõ cụt mà Kusanagi rơi vào lúc phá án. Không phải anh không có tài, nhưng anh đã không có được cơ hội mà Yugawa có, đó chính việc được quen và biết và hơn hết là hiểu hung thủ - Ishigami. Chân tướng của sự việc cũng như chân tướng của một con người, chỉ có thể hiểu mới nhận ra được.


Phía sau nghi can X đánh lừa tất cả chúng ta, bằng cái vẻ điềm tĩnh giản dị của nó. Ví như cái tên, nó khiến tôi ngỡ là mình đi tìm hung thủ, ví như những nhân vật trong câu chuyện toàn là những bộ óc thiên tài khiến tôi nghĩ đến sự siêu việt hoang tưởng, đặc sản của thế kỷ trước . Nhưng không phải. Nó không cần một cái kết cao trào hả hê chiến thắng, không cần một chiến công, nó cũng không phải là cuộc chiến của những dị nhân. Những thứ phù phiếm như thế không phù hợp với cuộc đời. Đằng sau mỗi vụ án, không chỉ có những tay thám tử, những tên hung thủ và công cuộc vờn nhau như một kiểu khoái cảm điên rồ. Mà sau nó là nỗi đau, sự sợ hãi, là nỗi buồn, là bất hạnh, là cô đơn, là hy sinh và phần nào đó, là hạnh phúc. Sau mọi thứ, vẫn là đời thường với những trái ngang âm thầm chôn giấu.

Camus đã nói rằng, thật dễ dàng tìm được mục đích sống, nhưng rất khó để tìm ý nghĩa của cuộc sống. Và tự sát là điều duy nhất có ý nghĩa trên cuộc đời này. Thật đúng với Ishigami, một thiên tài toán học trăm năm có một, người bị cuộc đời giam hãm niềm đam mê bằng những xô đẩy xui xẻo của nó. Không tìm được ý nghĩa đời mình, không thấy được lý do và niềm vui sống, Ishigami đã quyết định tự sát. Nhưng vào giây phút anh đút đầu vào thòng lọng, thì mẹ con Yasuko bấm chuông cửa, đem đến cho anh đôi mắt dịu dàng và một niềm vui sống mới. Lý do duy nhất mà anh ở lại trần gian, và cũng là khởi đầu cho sự việc rời bỏ nó thêm một lần nữa...

Cuốn sách bày ra ngổn ngang những mảnh đời, những mảnh ghép của một vụ án , dịu dàng lần theo các đầu mối để giải một bài toán ngắn gọn nhưng hóc búa. Đến khi mọi thứ hiện ra thật rõ ràng, mảnh ghép cuối cùng xuất hiện, đẳng thức được chứng minh, thì cùng với sự bất ngờ tưởng như sẽ không thể có ập đến, là một nỗi buồn mênh mông xâm lấn. Tội ác, tình yêu, sự hy sinh, sự tàn nhẫn, ý nghĩa của sự tồn tại vang lên như một bản nhạc thê lương mạnh mẽ. Không phán xét gì cả, bởi chúng ta chẳng bao giờ phán xét được ai. Bởi sự trừng phạt lớn nhất chính là mất đi sự thanh thản của đời mình, thì họ đã nhận lấy.

Và bởi vì, chúng ta sống vì điều gì, thì chúng ta sẽ chết vì điều đó. Mọi thứ đều xứng đáng để ta chọn.

Salammbo

Tình yêu và chiến tranh có lẽ là hai lời nguyền mà thượng đế dành cho loài người. Hai thứ vĩnh viễn kinh điển của nhân loại, không bao giờ lỗi mốt và nhàm chán. Tuy nhiên, con người luôn có quyền chọn lựa, trước cả tình yêu lẫn chiến tranh, hoặc tiến lên, hoặc phó mặc. Dù cả hai đều dẫn đến cánh cổng địa ngục của sự hủy hoại, nhưng hương vị và sự trải nghiệm của nó khác hẳn nhau, hẳn là vậy.

Flaubert đã chọn một câu chuyện cổ xưa để phác thảo ra nhân loại, một câu chuyện chứa trong lòng nó hai câu chuyện kinh điển, nóng hổi từ ấy cho đến hai mươi tư thế kỷ sau. Hai câu chuyện đan cài nhau, giật dây nhau và chia cắt nhau, hai câu chuyện tưởng như trái ngược nhưng thật ra luôn là một. Cuộc chiến tranh đẫm máu giữa Lính đánh thuê và thành Carthage, cuộc chiến mông muội đen tối đầy bản năng, và tình yêu giữa một tên thủ lĩnh đội lính đánh thuê và con gái của Pháp quan thành Carthage, Matho và Salammbo. Không kém cạnh cuộc chiến, đó là một tình yêu si mê và thù hận, say đắm và điên rồ, liều lĩnh hoang dại. Đó là tất cả những gì đại diện cho bản năng của con người, phần đen tối và thú tính nhưng cũng là phần yếu đuối nhất, mãi mãi không cởi bỏ được.


Cuộc chiến thành Carthage gây ra một cảm giác nghẹt thở, tù túng và kinh hoàng bởi sự man rợ đẫm máu của nó, như mọi cuộc chiến tranh khác suốt dọc các nền văn minh. Cùng với nó là một mạch chuyện khác, kín đáo lặng lẽ hơn, nhưng có lẽ là sôi sục hơn. Là mối tình si của Matho dành cho nàng Salammbo, một tình yêu gần như là tín ngưỡng. Và tôi nhận ra rằng, nó là thứ đã châm ngòi cho cuộc chiến tranh, chứ không phải là gì khác. Hoá ra tình yêu là tội đồ, là nguyên do, là lý lẽ. Chẳng phải mọi cuộc chiến trên hành tinh này đều nhân danh tình yêu đó sao? Một thứ đẹp đẽ ngọt ngào dường ấy có thể sản sinh ra cả một thảm hoạ. Dù muốn dù không, thì đó vẫn luôn là sự thật.

Thế nên, chừng nào chúng ta còn yêu, chiến tranh sẽ luôn luôn tồn tại. Nhưng ai cần quan tâm, trái tim khi yêu mù quáng hết chỗ nói. Matho làm tôi nhớ đến Du Thản Chi trong tiểu thuyết Kim Dung, đã yêu A Tử đến mức hiến dâng đôi mắt của mình, hành động mà Bùi Giáng gọi là "triệt để mù loà đi vào sa mạc tình yêu", thì Matho cũng đã mù loà như thế, đã đi vào sa mạc tình yêu như thế, bất chấp sau lưng chàng là một cơn bão cát khổng lồ đã dấy lên từ những bước chân mình. Matho, kẻ yêu dại dột và ngu si, kẻ vượt qua cả ngàn quân và trèo qua mấy bức tường thành, chỉ để được gặp người đẹp, kẻ không đoái hoài gì đến sĩ diện và cơn giận của mình, cơn giận chưa kịp thốt ra đã vội phủ phục dưới chân nàng mà run rẩy nói lời yêu, kẻ chỉ còn nghe thấy tiếng trái tim, chỉ còn biết đến tình yêu và vị thần của lòng mình. Bản thân chàng, cơ thể chàng và tâm trí chàng chàng không thèm đếm xỉa nữa thì huống gì là nhân loại.

Chiến tranh và tình yêu đều là hai cuộc dấn thân của con người theo tiếng gọi mê cuồng của chinh phục và chiếm hữu. Đó đều là những niềm hoan lạc với cái giá phải trả không gì đong đếm được. Lời nguyền của thượng đế chính là chất độc hoan lạc ấy, thứ đã ngấm vào trái cấm trên vườn địa đàng, dẫn dắt loài người đi vào mê lộ của tình yêu và thù hận, của ham muốn và chiếm hữu. Một con đường duy nhất mà chúng ta chỉ có thể đi tiếp, đi tiếp cho đến lúc lãng quên. Trước khi đến được lúc ấy, thì hãy yêu thôi, yêu như Matho đã yêu Salammbo, trọn vẹn duy nhất, kinh thiên động địa, điên rồ bất khả. Hãy yêu như cách tận hưởng nốt những giọt thuốc độc ngọt ngào mà thượng đế đã tưới tắm trần gian. Dù sao, hãy lựa chọn cho mình một cái chết lộng lẫy nhất có thể, nếu chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài cái chết.

Cưỡng cơn gió bấc

Người ta gọi đây là một thế giới ảo. Nơi tôi đang viết những dòng chữ này, nơi những con chữ rơi ra khỏi ngón tay tôi, gieo xuống bàn phím những tiếng kêu lách cách, chạy qua rất nhiều sợi dây mạch điện chằng chịt để rơi vào một khoảng mênh mông của tâm trí. Cái gì ảo? Dòng chữ của tôi? Tâm trạng của tôi, những điều tôi kể, cả những điều tôi không kể? Những khoảnh khắc trong cuộc đời hữu hạn này, khi ta gói ghém chúng và ném lên đây, để rồi người ta gọi nó là ảo. Thật đáng dỗi hờn.


Nhưng thôi được, nếu bạn gọi nó là ảo, thì cuốn sách này đang kể về một câu chuyện tình yêu ảo. Một cơn say tình mãnh liệt nhất tôi từng biết, với trùng điệp tâm trạng khi yêu vỗ bờ email qua những dòng chữ và những khoảng trắng, qua những lời hồi đáp dài miệt mài lẫn những câu trả lời cụt lủn lẫn cả những lần im lặng. Tôi cảm nhận được tình yêu của họ, nỗi khát khao có nhau của họ tới từng chân tóc của mình. Nếu ta còn gọi đây là ảo, thì tôi biết gọi những cảm xúc của mình là gì bây giờ.

Có điều tôi biết, nó cũng không phải là thật, vì nó không phải là toàn bộ sự thật. Nếu người ta chỉ có thể sống hoàn toàn với hiện thực, sẽ không có một dòng sông nào để cho những chuyến xà lan cảm xúc chất đầy tới nóc xuôi ngược hai bờ, và cũng chẳng có bến bờ nào để neo đậu. Đó là một thế giới mà người ta đã cắt một phần sự thật cua đời mình ném vào giữa bốn bề sương mờ giăng phủ, để chỉ có thể sống với duy nhất phần sự thật mà mình muốn sống cùng, chỉ có thể sống trọn vẹn nhất với những nỗi niềm riêng tư nhất. Ở đó, bạn nên biết rằng con đường của tình yêu sẽ rất thuần khiết, nghĩa là đi thẳng từ tâm hồn này sang tâm hồn khác, không vòng vo, không choáng ngợp hay bốc đồng. Như là một dòng sông chảy giữa đôi bờ, chỉ biết đến đôi bờ mà không hề vướng bận.

Lý tưởng là như thế. Đó là lý do tại sao cả Emmi và Leo đã không thể rút chân ra khỏi thế giới bàng bạc mộng tưởng của họ ngay cả khi họ nhận ra rồi tình yêu này chẳng thể dẫn đến đâu. Thế giới đầy ma lực và cảm xúc của hai con người quá đỗi thông minh dí dỏm tới mức đều tự nhận mình là phi tiếu lâm, thế giới của hai rung động cùng tần số, thế giới ấy không có hồi kết, như dòng sông chảy mãi không tìm thấy cửa biển của mình, mà tình yêu thì lớn dần, nước sông thì đầy mãi. Đó là khi lý tưởng vỡ tan, sương mù tan loãng, một phần của sự thật hiện ra giữa bộn bề của sự thật, dòng chảy quẩn quanh với lựa chọn cuối cùng là được quên đi, một ngày sẽ bốc hơi cùng nỗi nhớ.

Câu chuyện có vẻ không vui, nhưng thực ra đây là một trong những cuốn sách hài hước nhất mà tôi từng đọc. Kỹ năng viết thư với nội công thâm hậu, ăn miếng trả miếng hấp dẫn và cực kỳ thông minh. Chỉ có như thế, lực hấp dẫn mới xuất hiện giữa hai bờ sương giăng mù mịt, không một vết tích, không một bóng hình. Sự tinh tế nhạy cảm của hai nhân vật chính rất cao với khả năng đọc-hiểu rất chính xác tâm trạng đối phương, kể cả chỉ qua một dấu chấm than. Chưa có quyển sách nào khiến tôi thấy mình mắc kẹt như vậy, và chỉ muốn mắc kẹt trong cái tâm trạng như thế đến cuối đời.

Thỉnh thoảng nên đọc một quyển sách giản dị như thế này. Không cần nói chuyện thế giới, không dân tộc, không quốc gia, không thân phận. Chỉ có tình yêu thôi, và cũng chỉ có email thôi. Và có đôi ta thôi. Không phải chỉ cần chừng đó mà Chúa đã tạo nên tất cả sao. Tôi không cần tất cả, chỉ cần một đôi lần rung động mãnh liệt như đôi lần tôi đã đọc. Là đủ, đủ mất rồi

Thành phố và lũ chó

|Tôi năm nay 20 tuổi, và không cho phép ai được nói, đó là tuổi đẹp nhất trong một đời người- Paul Nizan|

Tôi không biết lứa tuổi nào đẹp nhất đời mình, nhưng tôi biết mình đã thương nhớ tuổi hai mươi của mình không phải vì nó đẹp. Không có một vết thương nào được coi là đẹp, dẫu ta đã nhìn nó hết sức trìu mến rưng rưng, thì sự thể vẫn không khá lên được. Đó vẫn là những năm tháng ít nhiều đau khổ, đầy những vết cứa nông hoặc sâu, đã thành sẹo hay vẫn còn hở miệng, là những năm tháng mộng mơ rồi tan vỡ mộng mơ, yêu thương rồi buồn tủi. Ở lưng chừng con dốc của tuổi trưởng thành, từng viên đá nặng nề từ đỉnh không ngừng lăn xuống, đè nát thân thể lẫn tâm hồn cho những cuộc lột xác không tự nguyện và sau đó buồn thảm tái sinh. Nếu có gì đáng để quên đi, thì đó là tuổi hai mươi khốn khổ, năm tháng điên rồ hụt hẫng chơi vơi, năm tháng mãi in trong não bộ mỗi người một vết sắc bén ngọt. 

Cuốn tiểu thuyết này là một cú rơi của tôi vào thế giới tuổi hai mươi của những đứa xa lạ, không mảy may có chút liên quan. Nhưng sự bức bối ngột ngạt của bầu không khí đặc sệt tù túng ở đấy tôi liên hệ được, cũng như nỗi đau đớn nhức nhối kéo dài đến cuối trang sách, tôi cảm nhận thấy. Nhức nhối như một vết thương xưa đã sưng tấy trở lại nhưng chờ hoài không có thuốc sát trùng, cứ đau kéo dài kéo dài chỉ còn biết cách hy vọng vào tháng năm. Trong một cuốn sách đầy tính bạo lực và tục tằn, trong chất nam tính ngông cuồng và ngây thơ dâng lên một nỗi buồn héo hon, ủy mị, thứ nỗi buồn mơ hồ phảng phất chất huyền ảo La tinh, thứ nỗi buồn tràn qua hết tâm trí tên chó con này đến tên chó con khác, tiết ra thứ chất độc khiến những vết thương suốt đời không khép miệng. Nỗi buồn của tuổi hai mươi.



Có lẽ đây là cuốn tiểu thuyết nhiều bạo lực nhất tôi đã từng đọc. Bạo lực không phải là vấn đề, bạo lực là môi trường, là không khí, là tất cả những gì vây quanh tuổi 14, 15 ngơ ngác bước vào đời. Bạo lực hun đúc những đứa trẻ, tôi luyện nó bằng những luật lệ vô cảm và hà khắc, để hình thành trong lòng chúng nó những dòng nham thạch cuồn cuộn chờ ngày phun trào. Trong cái nắng như thiêu của xứ nhiệt đới, mỗi con người càng ngày càng hoá đá thân thể mình, càng trơ lỳ với đòn roi cấm túc, thì tâm hồn càng cuồng nộ giận dữ những cơn thèm khát tự do. Cơn giận bốc lên trong những tâm hồn mới lớn rộng rãi trống trải, tạo ra một bầu không khí điên rồ ngang tàng mà buồn tủi đan xen. Những cuộc va chạm nảy lửa tạo ra mối thù và tình bằng hữu, dại dột và khí phách. Và tình yêu, cây trái ít ỏi và ngọt ngào giữa sa mạc mênh mông.

Dẫu bạo lực và những lời tục tằn cứ liên tục vang lên trong mỗi trang sách, thì văn chương của Mario Vargas Llosa vẫn cực kỳ tuyệt vời, để biến cả bầu không khí tối tăm bức bối kia trở nên huyền ảo. Những đoạn tả cảnh đậm đà chất nhiệt đới, những đoạn bạo lực ẩn giấu chất hài hước dí dỏm- người ta vẫn có thể cười vào mọi nỗi thống khổ thế đấy. Nhưng hơn cả, là những trường đoạn độc thoại của các nhân vật, mà nếu không chịu đọc kỹ sẽ chẳng biết cái đứa lèm bèm một mình kia là đứa nào. Những đoạn độc thoại luồn lách giữa các câu chuyện, cất cái giọng chủ quan ngây thơ lên, kể lể về những kỷ niệm buồn vui, về tình yêu chôn giấu, về ước mơ, sự giận dữ, sợ hãi, những đoạn độc thoại thoắt ẩn thoắt hiện, trôi từ tâm trí đứa này sang đứa khác, như mạch ngầm len lỏi giữa bầu không khí khô cằn, nối lại những tâm hồn bơ vơ, đan cài cái nhìn đa điểm đa tuyến của mọi người lên toàn bộ câu chuyện. Một mê cung rối rắm như rừng rậm Amazon, giăng bẫy người đọc, cài đặt những nút thắt mơ hồ. Thứ văn chương như thế khiến người ta ngạt thở nhưng đồng thời phấn khích và say đắm. Ông ấy đã có được giải Nobel văn chương bằng cái giọng văn ma mị như thế đó, thứ giọng văn thô lỗ, bạo liệt và nồng nàn, thứ giọng văn ngông cuồng nam tính, để kể về những điều rất u sầu và uỷ mị.

Tại sao người ta vẫn nhớ về tuổi hai mươi, dù có thể sẽ đấm vỡ mũi đứa nào bảo rằng đó là những năm tháng đẹp nhất trong đời. Có lẽ vì những mộng ước đã vỡ tan, niềm tin đã vỡ vụn. Có lẽ vì những ảo tưởng, những hy vọng, những khát khao, những đắm say đã hoá thành cát rơi xuống sa mạc mênh mông. Có lẽ vì những tâm hồn đã sống sót sau những trận đòn giận dữ đã tàn tật và ủ rủ như con chó Malpapeada. Có lẽ vì những ngọn núi lửa đã tắt sẽ không bao giờ nguôi nhớ những dòng nham thạch của mình. Có lẽ vì những vết thương, những nỗi buồn và sự trưởng thành đã bảo với ta rằng : mi mãi mãi sẽ không bao giờ thanh thản nữa.
 

Khải Hoàn Môn

Đêm mưa. Và tôi nhớ Ravic, ánh sáng từ điếu thuốc cháy dở anh ấy ném xuống dòng sông, loé lên như một niềm hy vọng nhỏ nhoi trong đêm dài ảm đạm, dưới cái bóng mờ của Khải Hoàn Môn ẩn hiện dưới làn mưa phùn. Chút ánh chớp trong khoảnh khắc để lại dư âm dài suốt những ngày sau, dài như cuộc đời và thời gian của những số kiếp lênh đênh. Dài như là nỗi ám ảnh của tôi đối với câu mà Ravic nói ở trong cuốn sách ấy, rằng : Chúng ta đang sống trong một thế kỷ bị lưu đày. Và thế kỷ ấy, dường như chưa bao giờ trôi qua, mà cũng chẳng thể nào trôi qua được.


Văn chương của Remarque đẹp quá, đẹp tới đau lòng, tới cồn cào xốn xang, tới tuyệt vọng. Đẹp đến mức cái bi kịch của Ravic hiện lên dưới ngòi bút của ông nó không chỉ là cái bi kịch của một thân phận người trôi dạt, mà còn là cái bi kịch của một tâm hồn quá thiết tha. Sự thiết tha không tìm thấy nơi neo đậu và bám rễ để mãi mãi quặn đau và gào thét trong lồng ngực, bùng cháy như một ngọn lửa căm hờn, bất mãn và đắng cay. Cuộc đời quá tàn nhẫn. Cuộc đời cứ thong thả gieo rắc vẻ quyến rũ của mình trong cơn lốc cuồng loạn của thời đại, khiến cho những số phận bị xoay tròn trong ấy, dù bầm dập tới nát như tương, vẫn không đủ can đảm để từ bỏ cuộc đời. Jeanne, nàng là hiện thân của cái vẻ đẹp ấy, vẻ đẹp vừa trong trẻo ngây thơ, vừa già dặn lọc lõi, tâm hồn nàng vừa say đắm nồng nàng vừa vô tình và tráo trở. Ravic đã rơi và tình yêu với nàng, như số phận đã bắt buộc anh phải ra đời vào cái thời đại hỗn loạn ấy, rơi vào trong những năm tháng điêu tàn mà yêu luôn cả cái vẻ điêu tàn rực rỡ của tháng năm. Số phận, chỉ là số phận thôi. Nhỏ nhoi như ánh lửa của điếu thuốc đã rơi xuống dưới chân cầu trong đêm, dưới cơn mưa phùn ấy. 

Tôi thương Ravic vì tâm hồn anh, vì sự nhạy cảm đến đau đớn của anh. Và vì anh chẳng là gì giữa cuộc đời này. Anh chỉ là cái bóng âm thầm đằng sau những cuộc phẫu thuật, một con người vô danh dẫu mang hàng chục cái tên. Tình yêu của anh cũng chẳng là gì, anh không đủ can đảm để giữ nó. Kể cả nỗi căm thù của anh, anh cũng tưởng nó có ý nghĩa, anh tưởng là giết được hắn xong thì mọi thứ sẽ khác. Hoá ra, nó cũng chẳng là gì ngoài sự đau đớn của riêng anh. Thế kỷ này vẫn đày đọa người ta bằng mọi giá. Anh nhỏ nhoi, bất lực, tuyệt vọng. Mà anh vẫn phải sống tiếp với tất cả những điều trên.

Ravic có thể cứu nhiều người, nhưng anh không cứu nổi đời mình. Mà thậm chí, anh cũng không biết là anh có thật sự cứu được ai không. Anh cướp họ khỏi tay tử thần, để ném họ lại vào trong một cuộc đời cũng không kém mấy phần địa ngục. Anh không biết mình nên làm gì. Sự bế tắc cứ dần dần gia tăng, tâm hồn anh hoá đá, trái tim anh hoá đá. Mọi thứ hoá đá dưới chân cánh cổng Khải Hoàn. Thế giới này đã hiến sinh tất cả, máu xương lẫn tim óc cho sự chiến thắng, một chiến thắng lạnh lùng vững chãi và vô cảm. Ai cần?

Chúng ta không cần chiến thắng. Chúng ta chỉ cần nhau, bên nhau như Javic và Jeanne đã ở bên nhau trong những đêm mùa xuân dạo ấy. Tình yêu mong manh không trụ vững nỗi trước cuộc đời, nhưng chí ít trong những phút ngắn ngủi ấy, khi tình yêu lên ngôi, họ đã hoàn toàn quên mất cuộc đời, quên thời gian và cái bóng của chiến tranh đã bủa vây. Tình yêu như liều thuốc gây mê, giúp họ vượt qua những cuộc đại phẫu. Tình yêu níu ta lại với cuộc đời, tình yêu khiến ta thôi nguyền rủa số phận, bởi nhờ nó mà ta gặp nhau. Tình yêu, chỉ là tình yêu thôi, chẳng còn gì nữa...

Nhưng mà, tôi nghĩ, thế cũng đủ cho một kiếp người rồi.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Thoạt tiên, tui nghi ngờ 4 chữ HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC xuất hiện trên trang bìa. Những sự ca ngợi quá đáng luôn làm tui đề phòng và giảm sự kỳ vọng của mình xuống tới zê rô. Nhưng cuốn này thì khác. Cả đêm qua và ngày hôm nay nữa, tui đã bế quan tỏa cảng để đọc nó, và thừa nhận, nó có đầy đủ các yếu tố để làm nên một HIỆN TƯỢNG.

Các yếu tố đó là gì ? Hài hước: có nhiều, có đầy đủ trong từng dòng, từng trang, từng chương. Kịch tính : có dư. Bất ngờ : trời nói chứ chưa bao giờ tui đọc một cuốn sách mà tui không sao đoán được các nhân vật sẽ hành động cái gì như cuốn này. Và cuối cùng : sự kiện , cả một thế kỷ 20 đầy những biến động trải dài trong cuốn sách, những xung đột, những mâu thuẫn của thế giới cứ thế mà theo hồi ức của ông cụ 100 tuổi mở ra trên từng trang sách.



Nói tóm tắt một chút về nội dung : cuốn sách này không nổi trội về mặt văn chương, vì cách hành văn khá đơn giản (nhưng bù lai hết sức thông mình và dí dỏm), nhưng tui cực kỳ đánh giá cao nó về mặt ý tưởng. Không có một cuốn sách lịch sử nào được kể lại mà đặc biệt hơn thế. Bạn sẽ hiểu thế giới này hơn mà không cần nhăn trán, nhíu mày hay tổn hao nơ ron cho các sự kiện. Bạn chỉ cần vừa đọc vừa cười ha ha như tui thôi. Ngay từ trang đầu tiên, nó đã cực kỳ đặc biệt rồi.

Câu chuyện mở đầu bằng sự kiện cụ già Allan, trong ngày sinh nhật của mình đã trèo qua cửa sổ của Nhà Già, giẫm nát bụi hoa pansee, trèo qua bức tường cao khoảng 1m, với bộ đồ duy nhất cùng đôi dép có mùi nước đái của cụ, bỏ trốn. Và từ đó kéo theo một binh đoàn đi tìm cụ bao gồm :

1. Chính quyền địa phương
2. Báo chí địa phương
3. Ăn cướp địa phương (vì không may cụ đã lấy cái valy đầy tiền của một tên cướp vì nghĩ rằng mình cần valy đựng cái gì đó )

Với một lực lượng hùng hậu như vậy, để săn tìm một ông cụ gần đất xa trời, thì quả là hơi xa xỉ. Nhưng tất cả đã nhầm, Allan , người từng sống qua thế chiến thứ I, thế chiến thứ II, thời kỳ chiến tranh lạnh, vũ khí hạt nhân các thứ , và có một thời tuổi trẻ huy hoàng làm chuyên gia chất nổ, liệu có dễ gì để người ta bắt được.

Nhất là trên đường đi Allan không chỉ có một mình. Bằng cách nào đó, cụ đã thành lập được băng của mình, ngon lành cành đào.

Thế nào, có gay cấn như phim Holywood hem?

Vậy bạn có hiểu tại sao cuốn sách này đã trở thành hiện tượng xuất bản chưa. Chính bởi vì nó có trong tay tất cả các yếu tố để làm hài lòng tất cả các thể loại độc giả : từ người ưa trinh thám, ưa phiêu lưu, ưa hành động đến thể loại ưa chiêm nghiệm, ưa nghiên cứu và cả những người đi tìm một tiếng cười sảng khoái để giải trí (cộng thêm thứ độc giả thích hầm bà lằng như tui đây ) 

Thành trì

Những cuốn sách về ngành Y tựu chung đều gợi lên một thứ cảm giác rất cô tịch, đơn độc. Nó gần như là một cuộc chiến mà người chiến đấu chỉ đơn thương độc mã ra trận, giữa muôn trùng khó khăn tiếp nối, giữa muôn trùng gian lao và hơn hết họ phải chiến đấu với muôn trùng kỳ vọng của bệnh nhân, của thân nhân những người đang trông đợi họ như trông đợi phép màu mà không hiểu rằng rốt cuộc họ cũng chỉ là một con người. Cái cô độc của một người bác sĩ là cái cô độc của một người phải đối mặt với kẻ thù chỉ duy nhất họ nhìn thấy - và thậm chí cả họ cũng khó lòng nhìn thấy. Thứ cô độc bơ vơ trong hình hài, trong dáng đứng, trong ánh nhìn. Đó không phải là con đường dễ dàng để lựa chọn.


A.J. Cronin từng là một bác sĩ. Ông hiểu cái gian lao của nghề, cái đơn độc của nghiệp. Bởi vậy những cuốn sách ông viết rất chân thực tới cả những giọt mồ hôi, tới cả máu và nước mắt và rồi cả những sinh mệnh. Từ 'Những tháng năm ảo vọng' cho đến 'Thành trì', những con người trong trang viết của ông hiện lên giản dị nhưng mạnh mẽ trong từng cuộc đấu tranh, trong từng cuộc vật lộn. Đấu tranh với tham vọng bản thân, đấu tranh với nghiệt ngã của số phận và đối mặt với những thất vọng đắng cay khi không giữ nỗi sinh mệnh con người.

Bây giờ, ở cái xã hội rối ren này, người ta vô cùng thất vọng về ngành y, thất vọng đến mức không còn nhận ra rằng nỗi thất vọng ấy đang rút dần rút dần đi của bác sĩ lòng nhiệt huyết và tinh thần cam đảm để chiến đấu, cuộc chiến đơn độc mà ngày này qua tháng khác họ vẫn gánh trên vai. Ai đã trao cho họ cái quyền nắm trong tay sinh mệnh người khác? Ai đã đưa họ lên đỉnh núi cao cheo leo và lộng gió, dù cao hơn vô vàn người nhưng gần vực thẳm hơn vô vàn người? Không ai hiểu, không ai cảm thông. Và nghề Y rốt cuộc vẫn là nghề hết sức nguy hiểm.