Thứ Ba, 4 tháng 10, 2011

Chuyện con mèo dạy hải âu bay


Những con mèo của cảng biển Hamburg, kiêu hãnh, tự tin và ngố vật vã. Những con mèo sạch sẽ, biết nói cám ơn nhưng cũng biết xỉa chín cái vuốt ra khi cần hù mấy tên cà bông đáng ghét. Những con mèo với những cá tính khác biệt, hơi bộ tịch một cách trẻ con nhưng cực kỳ chính chắn khi đối diện với vấn đề. Nhưng đó không phải là toàn bộ khiến bạn có thể yêu chúng nó tới chết đi được.

Zorba là một con mèo mun, mập ú và ngầu. Một ngày kia trên ban công nhà nó xuất hiện một cô hải âu mình đầy váng dầu, đang thoi thóp thở. Toàn bộ sức lực của cô nàng trút vào cuộc chiến cuối cùng để cho ra đời một quả trứng, và tại giây phút ấy, Zorba đã hứa với toàn bộ danh dự và lòng kiêu hãnh của loài mèo rằng :

Không ăn quả trứng
Chăm sóc cho quả trứng cho đến ngày chim non chào đời
Dạy cho nó biết bay.

Những gì còn lại của cuốn sách là hành trình của những con mèo trên cảng Hamburg để giữ vững lời hứa của mình.

Đây không phải là một câu chuyện cổ tích. Dù bạn sẽ tìm được một kết thúc kỳ diệu đúng như mong mỏi, nhưng nó không đến từ những phép màu. Nó đến từ nỗ lực và trái tim rộng mở của những con mèo, từ lòng kiêu hãnh thủ tín và tình yêu không định kiến của những sinh vật bé nhỏ trên cảng Hamburg. Zorba và những người bạn của nó đã vượt qua cái bản năng hoang dã của loài mèo, để ôm ấp vào lòng một quả trứng và sưởi ấm cho đến ngày con hải âu bé nhỏ chào đời. Và khi đã vượt qua cái bản năng ấy, con chim bé nhỏ không còn là một món ăn béo bở nữa, nó là một đứa con gợi lên ở lũ mèo tình mẫu tử ngọt ngào, điều mà trước giờ những con mèo mới chỉ biết nhận từ chủ của mình. Zorba bảo vệ đứa con nhỏ của mình, mớm cho nó từng con ruồi mà mình bắt được, xòe đủ vuốt mình ra cho bất cứ kẻ nào có ý định nhòm ngó con chim non. Nó đã yêu thương con hải âu không phải vì lời hứa. Đó là tình yêu vô điều kiện.

Những con mèo trên cảng Hamburg sẽ dạy cho chúng ta về tình yêu, nhưng hơn thế là một tình yêu không phân biệt giống nòi, sắc chủng: "Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu. Thật dễ dàng để yêu thương một ai đó giống mình, nhưng để yêu thương một ai đó khác mình thật sự rất khó khăn, và con đã giúp chúng ta làm được điều đó..." Zorba và bạn bè nó đã yêu con hải âu mà không hề có ý định biến nó thành một con hải âu lai mèo, không định cho nó sống cuộc đời của một con mèo, dù điều đó sẽ dễ dàng hơn với chúng. Với tất cả tình thương và sự tôn trọng một bản sắc khác biệt, chúng đã thực hiện lời hứa cuối cùng : dạy cho con hải âu bay.

Bay. Nghĩa là trả con hải âu về với bầu trời của nó. Mỗi một sinh vật có một thế giới của riêng mình và quan trọng nhất là làm chủ thế giới ấy. Zorba không yêu một cách ích kỷ, không giữ con chim như một niềm vui riêng, nó trả lại đôi cánh và bầu trời, trả lại bản năng sống mà hải âu vốn có. Khoảng cách giữa mặt đất và bầu trời là thăm thẳm, nhưng tình yêu giữa những con mèo và con hải âu dường như chẳng còn chỗ cho khoảng cách chen chân. Những cuộc đời rất độc lập nhưng đó là sự độc lập được nối bởi những sợi dây tình yêu không thể chia lìa.

"Chỉ những kẻ nào dám mới có thể bay" Câu kết của cuốn sách rất mạnh mẽ bởi chỉ những ai mạnh mẽ mới làm chủ được cuộc đời mình. Hải âu Lucky đã có thể bay, không phải chỉ vì từ "bay" nằm trong máu của nó mà còn bởi nó có được sự can đảm được truyền từ những người mẹ đã cưu mang nó suốt thời gian dài. Dám bay sẽ được bay, cũng như những con mèo dám vượt qua bản năng của mình để yêu. Không có gì là không thể, miễn là bạn cho mình một cơ hội để dấn thân, để nắm giữ đời mình. Bài học đó không chỉ dành cho hải âu Lucky, nó dành cho những người đã đọc cuốn sách này, và chắc là phần lớn đã không còn là thiếu nhi nữa. Vậy mà nó vẫn cứ là một bài học không bao giờ là cũ.

Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2011

Alexis Zorba, con người hoan lạc



Hy Lạp, đất nước của những vị thần tung cánh trên bầu trời, sống cuộc đời nửa thần tiên nửa trần thế, nơi có một người đàn ông tên là Alexis Zorba không có cánh và phép màu, hoang sơ và thô ráp như sinh ra từ mặt đất, ngửa mặt lên bầu trời cười nhạo những triết lý của những kẻ đang vỗ cánh tạo nên. Lão không cần đôi cánh, không cần phép thuật nhưng đã sống một cuộc đời đầy thống khoái và tự do như những cánh chim dang rộng trên miền đất của niềm vui và hoan lạc.

Alexis Zorba, một gã làm công người Hy Lạp, trong một dịp tình cờ đã gặp ông chủ của mình trên đường đến Crete khai thác than. Cuộc gặp gỡ đã khiến cho ông chủ của gã, một kẻ vùi mình trong sách vở tìm quên muộn sầu sửng sốt nhận ra đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Người đàn ông trẻ tuổi nhưng đầy bế tắc ngập chìm trong triết lý Phật giáo để tìm sự giải thoát, nhưng rốt cuộc càng lún sâu hơn trong nỗi cô đơn tuyệt vọng của chính mình. Đúng lúc đó thì Zorba xuất hiện, cười tiếng cười khinh khoái đầy bản năng, hát với âm thanh rộng mở của cuống họng và nhảy với toàn bộ ngôn ngữ của cơ thể. Với Zorba, cuộc đời là một chuỗi những đam mê, tận hưởng cả những lạc thú êm đềm lẫn nỗi buồn bỏng cháy. Ngọn lửa trong trái tim cuồng nhiệt của Zorba đầy năng lượng, truyền qua cho ông chủ, người đàn ông yếu đuối không thiết tha đến hiện thực, không màng đến thăng trầm của thế gian. Năng lượng sống của Zorba đốt cháy kinh kệ, đốt cả khoảng trống bơ vơ trong trái tim ông chủ. Họ trở thành một cặp bài trùng trong sự gắn kết đầy mâu thuẫn.

Sau cuộc gặp gỡ với Zorba, văn chương sách vở chỉ còn là những đầm lầy đặc quánh không lối thoát, không ánh sáng. Zorba không phỉ nhổ sách vở chữ nghĩa, nhưng những câu hỏi lão đưa ra khiến sách vở chữ nghĩa trở nên tuyệt vọng để trở thành một đống nhì nhằng vô tích sự. Cuộc đời không chỉ mô tả và tận hưởng bằng miệng, cũng như hạnh phúc hay đau khổ không phải chỉ thoát ra từ ngòi bút. Ông chủ của gã nghiền nỗi lòng qua những ngón tay, bằng tiếng sột soạt trên giấy, nhưng Zorba thì khác. Gã vận dụng tất cả các giác quan, bằng những điệu nhảy bất chấp quy luật, miễn là giải phóng được nỗi thống khoái đang ngập tràn tâm hồn, miễn là bay bổng và quay cuồng với niềm vui thực tại. Triết lý sống của Zorba đơn giản chỉ là sống hết mình cho từng khoảnh khắc với toàn bộ nhiệt huyết và đam mê. Zorba không bận lòng, không suy tính, không cân nhắc. Zorba chỉ sống và sống, với trái tim đầy lửa.

Cuộc đời Zorba là một cánh đồng miên man hoan lạc, ký ức của Zorba là những ngày hạnh phúc khôn cùng với âm thanh của cây đàn santuri, với nhan sắc của những người đàn bà thanh xuân đã lần lượt đi qua trong đời, với những chiến công, những lần tìm ra vỉa quặng. Gã đàn ông xấu xí, khô quắt khô queo nhưng đầy sức quyến rũ. Sự quyến rũ của gã chính là sự dâng tặng trọn vẹn không đắn đo với bất cứ những gì gã muốn dâng tặng, với mỗi khoảnh khắc chỉ có duy nhất một thứ gã để tâm. Sự dâng hiến trọn vẹn còn hơn cả những lời ca tụng có cánh, nó khiến mọi thứ gã nhận được trong đời đều mang giá trị cao nhất mà nó từng có. Sự cho đi nồng nhiệt khiến gã nhận được sự đáp trả nồng nhiệt. Cuộc đời Zorba giàu có vì Zorba đánh đổi bằng ngọn lửa trái tim và thể xác, bằng sự hân hoan đón nhận cuộc đời.

Hai nhân vật được phác thảo trong cuộc sách rất mâu thuẫn nhưng đều ghi nhận giá trị đích thực của cuộc sống, rằng sống là sống chứ không phải bất cứ một hành động nào khác. Ông chủ trí thức biết rằng mình đang ở trong cõi suy ngẫm và triết lý chứ không phải là sống, nên cuộc đời của một người không sống rất cằn cỗi và buồn tẻ. Zorba không suy nghĩ, không cân nhắc và cóc cần tới những luật lệ thế gian, Zorba chỉ sống và sống trung thành với bản năng làm người, được hạnh phúc được đau buồn và cuối cùng được chết trong tiếng thét từ giã cuộc đời đầy sảng khoái. Kinh Phật hướng con người từ bỏ cuộc sống để tìm đến sự giải thoát tự do, nhưng Zorba vẫn tự do khi đang tận hưởng cuộc sống, bởi vì Zorba đã sống với chính bản chất của cuộc sống, bởi vì được sống nghĩa là được tự do.

Cuốn sách ca ngợi Zorba, nhưng hơn thế, nó ca ngợi cuộc sống với toàn bộ bản chất của cuộc sống. Sống là hạnh phúc, là khổ đau, là đồng bằng rực rỡ, là đầm lầy ảm đạm. Sống là dũng cảm băng lên phía trước và ngạo nghễ trên hành trình. Sống là cho trái tim một đôi cánh, một ngọn lửa và một tâm trí vô ưu để dâng tặng trọn vẹn đôi cánh và ngọn lửa của mình cho cuộc sống